-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
Thương hiệu: Đang cập nhật
Tình trạng: Còn hàng
1. Đông Quỳ: (Malva verticilata Linn)
+ Tên khác: Phần (Mao Thi), Thâu (Nhĩ Nhã), Lộ qùy (Bản Thảo Cương Mục), Hoạt thái (Tục Danh), Hoạt qùy tử, Kỳ thái tử, Đằng thái tử, A úc tử, Hướng nhật quỳ tử (Hoà Hán Dược Khảo), Quỳ tử (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Cây mãnh ma - hạt là đông quỳ tử
+ Cây thuốc: Cây thảo, sống hai năm, cao 1m hay hơn. Thân hình trụ, mọc thẳng, phân nhiều cành, màu lục, phủ lông hình sao. Lá mọc so le, hình tim hoặc gần tròn, đường kính 4 – 5cm, gốc hình tim sâu, đầu tròn hoặc hơi nhọn, chia 5 thùy nông không đều hình chân vịt, thùy giữa lớn hơn, mép khía răng đều, gần gốc 5 tuổi rõ ở cả hai mặt, cuống lá dài 2 – 8cm, lá kèm hình tam giác nhọn. Cụm hoa mọc ở kẽ lá, gồm 4 – 5 hoa không cuống hoặc có cuống ngắn, màu trắng có vân đỏ tím, đường kính 1cm, đài hình chuông, 5 răng nhỏ và ngắn, tiểu đài có 5 lá bắc ngắn hơn đài: tràng 5 cánh bằng đầu, nhị nhiều có chỉ ngắn đính trên một cột. Quả nang chứa nhiều hạt dẹt.
- Hiện nay ở Trung Quốc dùng Đông quỳ tử với hạt của cây Quýnh ma còn gọi là Mảnh ma, Bạch ma có tên khoa học là (Abutilon avicennae Gaertn, Abutilon theophrasti Medic) không phải là cây Đông quỳ như mô tả ở trên. Cần tham khảo và nghiên cứu thêmn (Xem: Quýnh Ma).
+ Dược liệu: Hạt biểu hiện hình thận, một đầu hơi nhọn, lép, hơi lõm xuống, dài chừng hơn 3,2mm, mặt ngoài biểu hiện màu nâu, bộ phận rốn hạt lõm xuống phân ra màu nâu vàng, nhân của hạt màu vàng trắng, có nhiều dầu.
+ Phân bố: Có nhiều ở Trung Quốc, hay gặp ở Giang Tô Hà Bắc. Cây này chưa thấy ở Việt Nam. Chi Malva L., chỉ có một loài là cây đông quỳ ở Việt Nam. Cây được nhập trồng để làm cảnh, song có tác giả cho rằng, cây có mọc hoang dại ở Lai Châu (Võ Văn Chi, 1997). Đông quỳ là loại cây ưa sáng và đặc biệt ưa ẩm, gieo trồng từ hạt sau 3 tháng bắt đầu có hoa, nụ hoa mọc ra từ các kẽ lá, hoa nở từ dưới lên. Đặc biệt, khi cây bắt đầu có hoa, phần ngọn và cành vẫn tiếp tục phát triển, từ các kẽ lá cũng tiếp tục mọc ra nụ và hoa. Cây trồng dễ dàng bằng hạt.
+ Xuất xứ: Trung Quốc.
+ Bộ phận dùng: Rễ và cành lá thu hái quanh năm, phơi khô. Hạt thu hái vào mùa xuân, phơi trong râm.
2. Thu hái - sơ chế: Vào mùa hè hoặc thu, sau khi quả chín, lấy hạt và nghiền thành bột.
3. Bào chế - bảo quản:
Bào chế: Rửa sạch phơi khô, rây qua để bỏ bùn, mày nhỏ và tạp chất, đâm vụn dùng.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, đậy kín.
4. Thành phần:
+ Đông quỳ chứa acid malvalic (TDTH III, 186)
+ Gần đây, một số tác giả đã phân lập được các polysaccharid có tác dụng sinh học:
- Polysaccharid MVS I cấu tạo bởi arabinose, galactose, và glucose với tỷ lệ phân tử 3: 6: 7 (Chem Pharm Bull – 1991, 39, 2630).
- Polysaccharid MVS II A ( trong hạt) cấu tạo bởi arabinose, glactose, mannose với tỷ lệ phân tử 14: 28: 1.
- MVS-II G: gồm glucose, glactose, và mannose với tỷ lệ phân tử 10: 1: 1 (Chem Pharm Bull 1988. 36,2778).
- MVS III A gồm arabinose, xylose, galactose… và acid galacturonic (16: 1: 8: 3) (trong hạt) (Phytochemistry 1989. 28, 2609)
- Các polysaccharid acid MVS IV A chứa 3, 3% protein (Planta medica 1990, 56, 73) MVS VI (trong hạt) gồm arabinose, xylose, galactose, glucose, rhamnose và acod galacturonic (30: 15:20: 3: 2: 10 ).
- Các polysaccharid MVS-I, MVS II A, MVS III A, MVS IV A. MVS VI có tác dụng kháng bổ thế mạnh (anti complementary activity). Polysaccharid MVS I và polysaccharid giàu MVS V – CH từ peptidoglycan MVS, V cùng thể hiện hoạt tính giảm đường huyết (Planta medica1990, 56, 168).
- Hạt đồng quỳ còn chứa: các glycan có tác dụng sinh học.
5. Tính vị - quy kinh:
Tính vị: Vị ngọt, tính rất lạnh, hoạt.
Quy kinh: Vào các kinh Đại trường, Tiểu trường.
6. Tác dụng - chủ trị:
Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng kháng bổ thể và hạ glucose huyết: Các glycan từ hạt cây đông quỳ đã được thử tác dụng sinh học với kết quả là 6 glycan có tác dụng kháng bổ thể và 2 glycan chính có tác dụng hạ glucose huyết.
+ Tác dụng thực bào: Hoạt chất trong hạt cây đông quỳ có tác dụng kích thích hoạt tính thực bào, chính là một acid polysaccharid.
Tác dụng: Nhuận táo, hoạt trường, lợi đại tiểu tiện, thông lâm, xuống sữa.
+ Hạt đông quỳ có tính chất nhầy và làm dịu, được dùng chữa bí đại tiểu tiện, phù khi có thai. Ít sữa, sỏi tiết niệu, Ngày 3 – 9g dưới dạng bột hoặc sắc uống.
+ Thân và lá chữa viêm đường tiết niệu, phong nhiệt sinh ho. Ngày 3 – 9g sắc uống. Cành lá tươi, giã nát, đắp tại chỗ chữa sưng vú. Lá phơi âm can, đốt tồn tính, tán bột, sát chữa ghẻ và ngứa. Lá và ngọn non được dùng làm rau ăn để lợi tiêu hóa, thường dùng cho phụ nữ sắp đẻ.
+ Rễ được dùng chữa ít sữa, sỏi thận. Ngày 30-60g, sắc uống. Rễ phơi âm can, sao tôn tính, lấy tro, tán bột mịn, rắc chữa vết thương, chỗ lở loét, hôi thối.
Chủ trị: Trị phù thũng, táo bón, sữa không thông.
7. Kiêng kỵ: Phụ nữ có thai cấm dùng. Đây là vị thuốc hoạt lợi không có ngưng trệ thì cấm dùng.
8. Một số cách dùng thông dụng:
+ Thai chết lưu: Đông quỳ tử tán bột, uống với rượu, 1 muỗng thuốc, nếu miệng cấm khẩu không mở, cậy miệng đổ vào (Thiên Kim Phương).
Giao hàng trên toàn quốc
Thành tiền: