Hạ Khô Thảo

Thương hiệu: Đang cập nhật

Tình trạng: Còn hàng

Liên hệ
1. Hạ Khô Thảo: (Spica Prunellae) + Tên khác: Tịch cú, Nãi đông, Yến diện, Mạch tuệ hạ khô thảo, Mạch hạ khô, Thiết tuyến hạ khô, Thiết sắc thảo, Bổng trụ đầu hoa, v.v… + Cây thuốc: Hạ khô thảo là cây thảo, sống nhiều năm, cao 20-40 cm, có thể tới 70cm, thân vuông, màu tím đỏ, có lông. Lá mọc đối, hình trứng hay hình ngọn giáo, dài 1,5-5cm, rộng 1-2,5cm mép hoặc hơi khía răng. Cụm hoa bông gồm nhiều xim co ở đầu cành, dài 2-6cm; lá bắc có màu tím đỏ ở mép; hoa nhỏ, màu lam đậm hay tím nhạt, có cuống ngắn; đài hình ống...

1. Hạ Khô Thảo: (Spica Prunellae)

+ Tên khác: Tịch cú, Nãi đông, Yến diện, Mạch tuệ hạ khô thảo, Mạch hạ khô, Thiết tuyến hạ khô, Thiết sắc thảo, Bổng trụ đầu hoa, v.v…

+ Cây thuốc: Hạ khô thảo là cây thảo, sống nhiều năm, cao 20-40 cm, có thể tới 70cm, thân vuông, màu tím đỏ, có lông. Lá mọc đối, hình trứng hay hình ngọn giáo, dài 1,5-5cm, rộng 1-2,5cm mép hoặc hơi khía răng. Cụm hoa bông gồm nhiều xim co ở đầu cành, dài 2-6cm; lá bắc có màu tím đỏ ở mép; hoa nhỏ, màu lam đậm hay tím nhạt, có cuống ngắn; đài hình ống có 2 môi; tràng đều chia 2 môi, môi trên dựng đứng, vòm lên như cái mũ, môi dưới 3 thuỳ, thuỳ giữa lớn hơn, có răng; nhị 4, thò ra ngoài tràng hoa. Quả bế nhỏ, cứng, có 4 ô. Mùa hoa tháng 4-6, quả tháng 7-8. 

+ Dược liệu: Vị thuốc Hạ khô thảo là quả có hình chuỳ do bị ép nên hơi dẹt, dài 1,5-8 cm, đường kính 0,8-1,5 cm; màu từ nâu nhạt đến nâu đỏ. Toàn cụm quả có hơn 10 vòng đài còn lại và lá bắc, mỗi vòng lại có hai lá bắc mọc đối trên cuống hoa hay quả như hình quạt, đỉnh nhọn, có gân gợn rõ, mặt ngoài phủ lông trắng. Mỗi lá bắc có 3 hoa nhỏ, tràng hoa thường bị rụng, đài có 2 môi, với 4 quả hạch nhỏ hình trứng, màu nâu với vết lồi trắng ở đầu nhọn. Thể nhẹ, chất giòn, mùi nhẹ, vị nhạt.

+ Phân bố: Loài cây của các vùng Âu, Á ôn đới, phân bố ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và nhiều nước châu Âu. Chủ yếu sản xuất ở các vùng Giang Tô, An Huy, Chiết Giang, Hà Nam v.v…của Trung Quốc.

- Ở Việt Nam cây này hiện nay mới phát hiện được ở Sapa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Hà Giang vào các tháng 4, 5, 6 rất nhiều, sang đến tháng 8 một số đã lụi đi. Hiện tại đã được khai thác.

+ Xuất xứ: Trung Quốc.

+ Bộ phận dùng: Cụm quả đã phơi hay sấy khô của cây Hạ khô thảo (Prunella  vulgaris L.)

2. Thu hái - sơ chế:

+ Sau khi trồng 75-90 ngày, cây ra hoa. Khi nào hoa ngả sang màu nâu, thì thu hái phần ngọn cây mang hoa, mang về phơi hoặc sấy nhẹ đến khô.   

3. Bào chế - bảo quản:

Bào chế:

+ Theo kinh nghiệm Việt Nam:

- Rửa sạch, thái ngắn, phơi khô.

+ Theo Trung y:

- Hái được, âm can lấy lá, cành, hoa dùng.

Bảo quản:

+ Dễ hút ẩm, mốc biến màu đen; có thể phơi nhưng không nên quá nắng, mất mùi thơm, để nơi khô ráo.

4. Thành phần:

+ Hạ khô thảo chứa alcaloid tan trong nước, 3,5% muối vô cơ, tinh dầu. Trong các muối vô cơ có chủ yếu là kali chlorua. Tinh dầu chứa D-camphor (khoảng 50%) a- và D-fenchon, vết của alcol fenchylic. Chất đắng là prunellin (trong đó phần không đường là acid ursolic; còn có denphinidin cyanidin. Ở Pháp, người ta đã xác định trong cây có nhựa chất đắng, tanin, tinh dầu, chất béo, lipase, một glucosid tan trong nước (0,70g/kg cây khô) và một saponosid acid (1,10g).

5. Tính vị - quy kinh:

Tính vị: Vị đắng, cay, tính hàn, không độc.

Quy kinh: Vào 2 kinh can, đởm.

6. Tác dụng - chủ trị:

Tác dụng dược lý:

+ Thuốc sắc, dịch ngâm nước, ethanol – dịch ngâm nước và dịch ngâm ethanol bổn phẩm đều có tác dụng giáng thấp huyết áp động vật thực nghiệm rõ rệt. Thân, lá, bông và toàn thảo đều có tác dụng giáng áp, nhưng tác dụng của bông rõ hơn; tiêm vào xoang bụng chuột con dịch lắng cồn sắc nước bổn phẩm có tác dụng chống viêm rõ rệt; thuốc sắc bổn phẩm đối với trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn, vi khuẩn phẩy hoắc lọan, trực khuẩn đại trường, trực khuẩn biến dạng, khuẩn cầu chùm và trực khuẩn lao thể người đều có tác dụng ức chế nhất định (Trung dược học).

+ Cửu Bảo, Điền Tĩnh Quang và Đảo Thanh Cát (1940, Hoà hán dược dụng thực vật) đã thí nghiệm lấy các muối vô cơ trong nước sắc hạ khô thảo, chế thành thuốc tiêm, tiêm tĩnh mạch thỏ, lập tức thấy huyết áp hạ xuống, vận động hô hấp tăng lên, tác dụng lợi tiểu rõ rệt như các muỗi kali khác. Do đó suy ra rằng sở dĩ hạ khô thảo có tác dụng là do lượng muối kali khá cao.

+ Theo báo Y học Liên Xô, 1951 (kỳ 6 năm thứ bảy) và Y dược học (quyển số 4 kỳ 6 1951) các chất tan trong nước có hạ khô thảo có tác dụng hạ huyết áp lâu dài trên bệnh nhân và làm hết các triệu chứng khó chịu của bệnh cao huyết áp.

+ Có nơi nhân dân Trung Quốc dùng nấu nước uống thay nước trà.

Tài liệu cổ nói vị hạ khô thảo có tác dụng chữa loa lịch (lở loét, tràng nhạc, mụn nhọt, dò ở trên đầu) rất có công hiệu.

+ Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (thê kỷ 16) có kể một trường hợp ông dùng chữa bệnh nhức mắt rất công hiệu như sau: "Có một người con trai đau ở trong con ngươi, nhức cả ở trong quãng xương đầu lông mày và đau thêm nửa đầu, dùng hoàng liên nhỏ vào lại càng thêm đau, uống các thứ thuốc khác cũng đều không công hiệu, liền dùng ngải cứu ở các huyệt quyết âm, thiếu dương tức thời khỏi đau, cứ nhùng nhằng như thế tới hơn một tháng, liền dùng hạ khô thảo 2 lạng (80g), hương phụ (củ gấu) 2 lạng (80g), cam thảo 4 đồng cân (16g). Các vị cùng tán bột, mỗi lần uống 1 đồng rưỡi (6g) hoà với nước chè, uống khỏi miệng, đau nhức bớt ngay. Tiếp đó chỉ uống 4-5 lần nữa bệnh khỏi hẳn."

+ Cùng trong tài liệu đó, Lý Thời Trân có kể một tác giả khác là Lê Sĩ Cư trong bộ sách Giản dị phương nói hạ khô thảo hàn đắng và lạnh (như hoàng liên) mà nhỏ vào lại càng đau thêm, nhưng dùng hạ khô thảo rất hay.

Tác dụng: Thanh can hoả, tán uất kết, tiêu ứ sáng mắt, làm thuốc chữa loa dịch, giải trừ nhiệt độc ở tử cung và âm hộ.

Chủ trị: Mắt đỏ sưng đau, nhức đầu, chóng mặt, bướu cổ, tràng nhạc, tuyến vú tăng sinh, nhọt vú sưng đau, huyết áp cao.

7. Kiêng kỵ: Không dùng cho những người âm hư, vị yếu không có uất kết.

8. Một số cách dùng thông dụng:

+ Chữa tràng nhạc mã đao: Hạ khô thảo 5 lạng (200g) đun lấy nước đặc uống, uống trước khi ăn cơm 2 giờ (Bài thuốc trích trong sách "Tiếp thị ngoại khoa - Bản thảo cương mục").

- Cũng bệnh trên có thể dùng hạ khô thảo, hương phụ, bối mẫu, viễn chí đun lấy nước đặc uống rất hay, không nên coi thường (sách kinh nghiệm phương - Bản thảo cương mục)

+ Chữa xích bạch đới:

Hạ khô thảo tán nhỏ, mỗi lần uống 8g với nước cơm (sách Từ Thị Phương).

+ Chữa tràng nhác: (loa lịch) hạ khô thảo 8g, cam thảo 2g, nước 3 bát (600ml) sắc còn 200ml chia ba lần uống trong ngày.

+ Thông tiểu tiện: Hạ khô thảo 8g, hương phụ tử 2g, cam thảo 1g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia làm 3 lần uống trong ngày.

+ Bị đánh hay bị thương: Dùng hạ khô thảo tươi tán nhỏ đắp vào vết thương.