Xà Sàng Tử

Thương hiệu: Đang cập nhật

Tình trạng: Còn hàng

Liên hệ
1. Xà Sàng Tử: (Fructus Cnidii) + Tên khác: Xà sàng thực, Giần sàng. + Cây thuốc: Cây xà sàng là một loại cỏ cao từ 0,4-1m. Thân có vạch dọc. Lá hai lần xẻ lông chim, chiều rộng của thuỳ 1-1,5mm. Cuống lá dài 4-8cm. Có bẹ lá ngắn. Hoa mọc thành tán kép, tổng bao có ít lá bắc hẹp, cuống hoa dài 7-12vm, dài hơn lá. Quả dài 2-5mm, có dìa mỏng. + Dược liệu: Là quả chín phơi khô của cây Xà Sàng nidium monnieri(L) Cusson. Quả đóng với 2 phân quả dính vào nhau ở một mặt tạo thành hình trứng nhỏ....

1. Xà Sàng Tử: (Fructus Cnidii)

+ Tên khác: Xà sàng thực, Giần sàng.

+ Cây thuốc: Cây xà sàng là một loại cỏ cao từ 0,4-1m. Thân có vạch dọc. Lá hai lần xẻ lông chim, chiều rộng của thuỳ 1-1,5mm. Cuống lá dài 4-8cm. Có bẹ lá ngắn. Hoa mọc thành tán kép, tổng bao có ít lá bắc hẹp, cuống hoa dài 7-12vm, dài hơn lá. Quả dài 2-5mm, có dìa mỏng.

+ Dược liệu: Là quả chín phơi khô của cây Xà Sàng nidium monnieri(L) Cusson. Quả đóng với 2 phân quả dính vào nhau ở một mặt tạo thành hình trứng nhỏ. Mặt ngoài màu vàng nhạt hoặc màu vàng sẫm. Đỉnh có 2 vòi mảnh. Đỉnh có 5 khía lồi nhô cao, xen kẽ với 4 rãnh khá sâu, trông giống như quả có cánh, giữa là 1 hạt hình trứng. Mỗi phân quả có thể nhìn thấy 6 viết tròn nhỏ. Hạt nhỏ , mầu nâu xám, có dầu. Quả có mùi thơm, vị cay.

+ Phân bố:

 - Thế giới: phân bố chủ yếu ở vùng Đông Á , bao gồm Trung Quốc (Đài Loan, Hải Nam, Vân Nam, Quảng Tây), Nhật Bản, Nga.
- Việt Nam: các tỉnh phía bắc, Hà Tĩnh, Nghệ An vùng núi và đồng bằng, trung du và vùng núi.

+ Xuất xứ: Trung Quốc, Việt Nam.

+ Bộ phận dùng: Quả phơi khô của cây Xà sàng.

2. Thu hái - sơ chế:

+ Thu hái vào 6-8 là thời gian quả chín. Nhổ hay cắt cả cây về phơi khô, đập lấy quả, loại bỏ tạp chất, phơi lần nữa cho thật khô là được.

3. Bào chế - bảo quản:

Bào chế:

+ Theo kinh nghiệm Việt Nam:

- Dùng sống: nấu lấy nước để tắm rửa.

- Dùng chín: tẩm muối sao qua (nở đều là được).

+ Theo Trung y:

- Lấy nước chàm đặc và nước bách bộ đặc cùng tẩm với xà sàng vài giờ, vớt ra phơi khô. Lại dùng nước đại hoàng tẩm ướt rồi đồ chín 3 giờ, lấy ra phơi dùng (Lôi Công).

- Dùng uống trong thì xát bỏ vỏ ngoài, lấy nhân sao qua cho không còn cay; lấy nước rửa ngoài thì dùng sống (Đại Minh).

Bảo quản: Để nơi khô ráo, mát, kín, tránh nóng, ẩm để giữ tinh dầu.

4. Thành phần:

+ Tính dầu: Với tỷ lệ 1,3% có mùi hắc đặn biệt. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là chất L.pinen, camphen và bocnylisovalerianat.

+ Chất ostola tinh thể không màu có công thức C15H16O3' đôk chảy 8205-8305.

+ Chất dầu màu đen xanh có thành phần chủ yếu là 92,66% axit béo không no, 4,56% axit béo no và 0,38% chát không xà phòng hoá được, 3,27% glyxerin.

5. Tính vị - quy kinh:

Tính vị: Vị cay, đắng, tính ôn.

Quy kinh: Vào các kinh Thận  và Tam tiêu.

6. Tác dụng - chủ trị:

Tác dụng dược lý:

+ Đối với hệ tuần hoàn: Có tác dụng chống rối loạn nhịp tim và hạ huyết áp.

+ Đối với hệ hô hấp: Có tác dụng cắt cơn hen (bình suyễn), trừ đờm, giãn phế quản.

+ Tác dụng kháng khuẩn: Có tác dụng ức chế đối với tụ cầu khuẩn vàng (staphylococcus aureus) nhờn thuốc, trực khuẩn mủ xanh (bacillus pyocyaneus), một số loại nấm gây lở ngứa ngoài da (microsporum, epidermophyton, trichophyton), trùng roi,...

+ Đối với hệ miễn dịch: Có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch, chống dị ứng.

+ Đối với hệ sinh dục: Xà sàng tử có tác dụng như testosteron. Cho chuột thí nghiệm uống nước sắc xà sàng, thấy có tác dụng làm tăng trọng lượng tử cung và buồng trứng.

Tác  dụng: Cương dương, ích thận tử phong táo thấp.

    Chủ trị:

    + Chữa liệt dương, bộ phận sinh dục ẩm ngứa, phụ nữ lạnh tử cung, không có con, khí hư, xích bạch đới. Trị ngứa toàn thân do phong, dùng thuốc sắc nước tắm thì khỏi. Trị lợi răng và trẻ em động kinh.

    7. Kiêng kỵ: Thận  hoả, dương vật dễ cương không nên dùng. Phần nhiều làm thuốc dùng ngoài.

    8. Một số cách dùng thông dụng:

    + Chữa nam giới dương nuy (liệt dương): Dùng xà sàng tử, ngũ vị tử, thỏ ty tử - 3 thứ liều lượng bằng nhau; nghiền mịn, hoàn với mật thành viên bằng hạt ngô đồng; ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.

    + Chữa phụ nữ tử cung lạnh không thụ thai được: Xà sàng tử 12g, ba kích 12g, ngũ vị tử 8g, phá cố chỉ 8g, nhục quế 8g; tất cả tán thành bột mịn, có thể làm thành viên; mỗi ngày uống 24g với nước sắc dây tơ hồng sao 30g làm thang.

    + Chữa ngọc hành sưng đau: Dùng hạt xà sàng tán thành bột mịn, hòa với lòng trắng trứng gà đắp vào, khô lại đắp thứ mới. Chủ trị ngọc hành sưng to như dùi trống.

    + Chữa bạch đới khí hư: Xà sàng tử, phèn chua - 2 vị bằng nhau; tán nhỏ; nấu hồ trộn vào làm thành viên bằng quả táo, bọc lụa hay gạc cho vào âm hộ, thấy nóng bỏ ra. Có thể sắc để thụt rửa.

    + Chữa viêm âm đạo do trùng roi: Dùng xà sàng tử 30g, hoàng bá 9g; tất cả tán thành bột mịn, trộn với glycerogelatin làm thành thuốc đĩnh 2g (mỗi thỏi nặng 2g); mỗi ngày đặt 1 thỏi vào âm đạo.

    + Chữa bộ phận sinh dục lở ngứa:

    - Dùng giần sàng, lá sen, bèo ván - mỗi thứ 1 nắm; nấu nước xông và rửa (Nam dược thần hiệu).

    - Hoặc dùng xà sàng tử 30g, bạch phàn 6g; sắc nước rửa (Tần Hồ tập giản phương).

    + Chữa trĩ ngoại: Xà sàng tử 40g, cam thảo 40g; tán nhỏ, trộn đều; ngày uống 9g, chia ra làm 3 lần uống, mỗi lần 3g. Đồng thời nấu nước xà sàng tử xông và rửa chỗ đau.

    + Chữa chàm, viêm da: Dùng độc vị xà sàng tử 60g, hoặc dùng xà sàng tử, kinh giới, phòng phong, đảng sâm - mỗi thứ 15g; sắc lấy nước, tẩm bông đắp lên vùng da bị chàm hoặc viêm nhiễm. Đã thử nghiệm điều trị 280 ca chàm, 100 ca viêm da, đạt kết quả tốt.

    + Chữa chàm ở trẻ nhỏ: Dùng xà sàng tử tán thành bột mịn, trộn đều với vaseline thành một thứ cao mềm; bôi lên những chỗ da bị bệnh. Dùng cho trường hợp vết chàm bị viêm loét, chảy mủ.

    + Chữa tóc rụng từng mảng (ban thốc): Dùng xà sàng tử 500g, bách bộ 250g, hoàng bá 100g, thanh phàn 20g, cồn 70% 3000-4000ml; ngâm trong 10-20 ngày, lọc bỏ bã; mỗi lần dùng 100ml, trộn với 20ml dầu vừng bôi vào chỗ tóc rụng.

    + Chữa tai ướt, ngứa: Xà sàng tử 4g, hoàng liên (hoặc hoàng đằng) 4g, khinh phấn (calômel) 1g; tán nhỏ, trộn đều, thổi vào tai.

    + Lòi dom: Xà sàng tử 40g, cam thảo 40g, tán nhở trộn đều. Ngày uống 9g chia làm 3 lần uống (mỗi lần 3g). Đồng thời nấu nước xà sàng tử xông và rửa chỗ đau.